Phú Thọ là tỉnh thuộc khu vực trung du và miền núi phía Bắc, có vị trí nằm trong quy hoạch vùng Thủ đô, là cửa ngõ trung tâm kinh tế liên tỉnh phía Bắc, trong hành lang kinh tế Côn Minh (Trung Quốc) – Hà Nội – Hải Phòng, có nhiều tiềm năng và lợi thế để phát triển. Những năm gần đây, kinh tế của tỉnh đã và đang có nhiều chuyển biến tích cực với tốc độ phát triển nhanh. Quy mô tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh trong năm 2021 đạt 80.764 tỷ đồng, đứng thứ 34/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và đứng thứ 3/14 tỉnh vùng trung du và miền núi phía Bắc. Dân số toàn tỉnh là 1.507,5 nghìn người, trong đó tổng số lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành kinh tế ước tính đạt 847,2 nghìn người, tăng 4,5 nghìn người so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 41,2% tổng số, giảm 5,8 nghìn lao động; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 31,2%, tăng 7,1 nghìn lao động; khu vực dịch vụ chiếm 27,6%, tăng 3,2 nghìn lao động. Thu nhập bình quân/người/tháng của cán bộ, công nhân viên chức, người lao động đạt 7,2 triệu đồng1…

Cơ cấu nền kinh tế Việt Nam tác động đến người lao động như thế nào?

Cơ cấu nền kinh tế của Việt Nam có một sự tác động lớn đối với người lao động trong nhiều khía cạnh. Dưới đây là một số cách mà cơ cấu nền kinh tế Việt Nam tác động đến người lao động:

Tạo cơ hội việc làm: Cơ cấu nền kinh tế quyết định số lượng và loại hình công việc có sẵn cho người lao động. Ví dụ, sự tăng trưởng của ngành công nghiệp sản xuất có thể tạo ra nhiều cơ hội việc làm trong lĩnh vực này.

Lương và thu nhập: Cơ cấu kinh tế ảnh hưởng đến mức lương và thu nhập của người lao động. Các ngành kinh tế khác nhau có khả năng trả lương và thu nhập khác nhau, và sự tăng trưởng của các ngành này có thể tạo ra sự gia tăng thu nhập cho người lao động.

Chất lượng công việc: Cơ cấu kinh tế cũng có thể ảnh hưởng đến chất lượng công việc. Một cơ cấu kinh tế đa dạng có thể tạo ra nhiều loại công việc với nhiều cơ hội phát triển sự nghiệp và đào tạo, trong khi một cơ cấu kinh tế hạn chế có thể tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa người lao động cho các công việc giới hạn.

Đào tạo và phát triển: Cơ cấu kinh tế cũng đòi hỏi người lao động cần phải có kỹ năng và đào tạo phù hợp để làm việc trong các ngành kinh tế cụ thể. Người lao động cần điều chỉnh kỹ năng và kiến thức của họ để phản ánh sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế.

Bảo vệ xã hội: Cơ cấu kinh tế có thể ảnh hưởng đến các chương trình bảo hiểm xã hội, bảo vệ lao động và quyền lợi của người lao động. Chính phủ thường phải điều chỉnh các chính sách xã hội để đảm bảo rằng người lao động được bảo vệ và có điều kiện làm việc an toàn.

Chất lượng cuộc sống: Sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế cũng có thể ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của người lao động. Nếu nền kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ, thì có khả năng gia tăng chất lượng cuộc sống thông qua tăng cơ hội sở hữu và tiêu dùng.

Tóm lại, cơ cấu nền kinh tế của Việt Nam có tác động sâu rộng đối với người lao động, từ cơ hội việc làm và thu nhập đến chất lượng cuộc sống và quyền lợi xã hội. Điều này đặc biệt quan trọng trong việc xác định sự phát triển và phát triển bền vững của nền kinh tế và xã hội của Việt Nam.

Lưu ý: Thông tin chỉ mang tính chất tham khảo

Nhiều chính sách hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp đô thị

Năm 2021, HĐND TP.HCM ban hành Chính sách hỗ trợ khuyến nông theo Nghị quyết 19/2021/NQ-HĐND. Theo đó, các tổ chức, cá nhân trên địa bàn khi tham gia xây dựng và nhân rộng mô hình sản xuất nông nghiệp, nông nghiệp đô thị, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, được ngân sách Thành phố hỗ trợ giống, thiết bị, vật tư thiết yếu; hỗ trợ kinh phí thực hiện mô hình ứng dụng công nghệ cao.

Chương trình khuyến công có ý nghĩa lớn trong việc khuyến khích tham gia đầu tư phát triển sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Các dịch vụ khuyến công nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa.

Giai đoạn 2021-2025, TP.HCM đã ban hành chính sách khác nhằm khuyến khích chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp đô thị. Chế biến nông sản thành sản phẩm dóng gói tại Công ty TNHH Liên kết thương mại Toàn Cầu ở xã Nhị Bình, huyện Hóc Môn. Ảnh: Trần Khánh

Riêng với sản phẩm nông nghiệp đã qua chế biến, UBND TP.HCM thực hiện Chính sách hỗ trợ phát triển theo Chương trình khuyến công, được quy định theo Quyết định số 17/2020/QĐ-UBND ngày 09 tháng 07 năm 2020. Theo đó, Chương trình Khuyến công chi hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng máy móc thiết bị tiên tiến vào sản xuất nông nghiệp tối đa 300 triệu đồng.

Đối với mô hình kinh tế tập thể, TP.HCM ban hành chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp theo Chương trình vốn vay ưu đãi của Quỹ trợ vốn xã viên hợp tác xã TP.HCM (gọi tắt là Quỹ CCM) là đơn vị trực thuộc Liên minh Hợp tác xã Thành phố.

Quỹ trợ vốn xã viên HTX được thành lập theo Quyết định số 2539/QĐ-UB ngày 13/6/2002 của UBND Thành phố. Đến nay Quỹ tiếp tục giúp Tổ hợp tác, HTX có điều kiện tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ bằng số vốn do Quỹ hỗ trợ có hoàn lại vốn và phí.

Quỹ trợ vốn xã viên HTX giúp thành viên trong HTX và người lao động trong Tổ hợp tác có điều kiện tạo thêm công ăn việc làm, cải thiện thu nhập cho gia đình và bản thân bằng công sức và năng lực của mình.

Các HTX, Liên hiệp HTX nông nghiệp, tổ hợp tác, hộ dân là thành viên HTX, tổ hợp tác tham gia phát triển sản xuất nông nghiệp có thể tham gia và hưởng chính sách hỗ trợ vốn, tín dụng từ Quỹ trợ vốn xã viên HTX Thành phố với mức phí cho vay khoảng 70% so với lãi suất cho vay cùng kỳ hạn của các ngân hàng thương mại.

Trồng rau sạch bằng ứng dụng công nghệ cao ở TP.HCM. Ảnh: Trần Khánh

Theo Quyết định số 4183/QĐ-UBND ngày 14/12/ 2021 của UBND Thành phố, Quỹ Hỗ trợ Nông dân (thuộc Hội Nông dân TP.HCM) là Chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp theo Chương trình vay vốn ưu đãi.

Hội viên nông dân phát triển nông nghiệp đô thị, nông nghiệp công nghệ cao có thể được vay vốn từ Quỹ hỗ trợ nông dân thuộc Hội Nông dân Thành phố với mức phí cho vay cao nhất không quá 80% lãi suất cho vay cùng kỳ hạn của các ngân hàng thương mại, mức phí cho vay hiện hành là 0,65%/tháng.

Bên cạnh các chính sách hỗ trợ vốn, tín dụng, vật tư đầu vào, TP.HCM còn triển khai nhiều cơ chế chính sách hỗ trợ khác như Chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng vùng nông thôn theo chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới.

Đến nay, TP.HCM đã đầu tư 9.188 công trình hạ tầng kỹ thuật, xã hội, đáp ứng nhu cầu đi lại, giao thương phát triển sản xuất, dạy - học, khám chữa bệnh, vui chơi giải trí của người dân nông thôn;

TP.HCM cũng ban hành các chính sách hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực công nghệ cao; chính sách thí điểm xây dựng công trình phụ trợ trên đất nông nghiệp được triển khai thực hiện góp phần phát triển nông nghiệp đô thị.

Thách thức của lao động nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay

Theo số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê, dân số thành thị ngày càng tăng, trong khi dân số nông thôn có xu hướng giảm. Dân số khu vực thành thị ở Việt Nam năm 2019 là 33.122.548 người so với 26.515.900 người năm 2010, tương ứng chiếm 34,4% so với mức 30,6% tổng dân số cả nước. Từ năm 2009 đến nay, tỷ trọng dân số khu vực thành thị tăng 4,8 điểm phần trăm. Một trong những lý do dẫn đến sự thay đổi này chính là quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh và rộng khắp tại nhiều địa phương đã tác động làm gia tăng dân số ở khu vực thành thị (1).

So sánh số liệu thống kê hằng năm cho thấy, sự dịch chuyển giảm dần đều về cơ cấu lao động ngành nông nghiệp trong tổng số lao động. Tỷ trọng lao động có việc làm trong khu vực nông, lâm, thủy sản ở nước ta liên tục giảm, từ 53,9% năm 2009 xuống còn 35,3% năm 2019. Đây là lần đầu tiên, số lao động làm việc trong khu vực dịch vụ cao hơn số lao động trong khu vực nông, lâm, thủy sản.

Thách thức lớn nhất hiện nay đối với lao động nói chung và lao động nông nghiệp ở Việt Nam nói riêng là chất lượng lao động còn thấp. Theo đánh giá của nhiều nghiên cứu, trong đó có đánh giá của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, thì chất lượng nguồn nhân lực của nước ta còn khoảng cách khá xa so với các nước phát triển và một số nước trong khu vực. Tỷ lệ lao động qua đào tạo và đào tạo nghề còn thấp, cơ cấu nguồn nhân lực phân theo trình độ đào tạo còn bất cập, tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ” vẫn chưa có hướng khắc phục hiệu quả, dẫn đến sử dụng lãng phí nguồn nhân lực; lợi thế giá nhân công rẻ bị mất dần, dạy nghề chưa gắn với nhu cầu việc làm và còn biểu hiện lãng phí.

Việt Nam đang ở thời kỳ “dân số vàng”, nếu tận dụng tốt có thể đóng góp không nhỏ vào tăng trưởng kinh tế, mở rộng đầu tư vào xã hội. Vậy câu hỏi là làm thế nào để có thể phát huy được lợi thế “lao động vàng” trong điều kiện chất lượng lao động còn thấp như hiện nay? Theo Quyết định số 579/QĐ - TTg, ngày 19-4-2011, của Thủ tướng Chính phủ, về “Phê duyệt chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011 - 2020” thì đến năm 2020 sẽ có 70% lao động được qua đào tạo; tuy nhiên, thống kê thực tế năm 2020 của Tổng cục Thống kê cho thấy chỉ có 24,1% lao động được qua đào tạo có bằng và chứng chỉ sơ cấp trở lên(2). Lực lượng lao động phần lớn vẫn còn thiếu kỹ năng và kiến thức để đáp ứng yêu cầu của thị trường. Nếu so sánh với một số nước trong khu vực, tỷ lệ lao động qua đào tạo của Việt Nam có những bước tiến bộ nhưng trên thực tế vấn đề chất lượng, bằng cấp của lao động khi vào làm việc vẫn là điều đáng lo ngại. Hầu hết lao động được tuyển dụng vẫn phải đào tạo lại, thậm chí nhiều lao động phải làm trái ngành nghề do đào tạo không sát với nhu cầu của thị trường.

Tính chuyên nghiệp trong kỷ luật lao động của lao động Việt Nam cũng là vấn đề đáng quan tâm. Một bộ phận không nhỏ người lao động chưa được tập huấn về kỷ luật lao động công nghiệp, thậm chí khi được tập huấn rồi nhưng việc tuân thủ các quy định, quy trình công nghiệp hiện đại của người lao động còn thấp. Phần lớn lao động xuất thân từ nông thôn, mang nặng tác phong của một nền sản xuất nông nghiệp tiểu nông. Đây là một trong những khó khăn khi người lao động dịch chuyển từ khu vực nông nghiệp sang khu vực phi nông nghiệp, đặc biệt là sang các ngành nghề đòi hỏi tính quy chuẩn cao.

Ngoài ra, nhận thức về thị trường lao động chưa đầy đủ, quản lý thị trường lao động kém hiệu quả, dự báo cung - cầu lao động chưa được quan tâm đúng mức dẫn tới tình trạng thiếu việc làm và di dân thời vụ ở nông thôn ra thành thị ngày càng có xu hướng tăng, gây nên sức ép lớn về dịch vụ nhà ở, chăm sóc sức khỏe, nước sạch, vệ sinh môi trường, giao thông…

Một số hàm ý chính sách cho Việt Nam

Thời kỳ Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, đặc biệt trong điều kiện Việt Nam đã thoát khỏi ngưỡng thu nhập thấp nhưng lại đang đối diện với vấn đề bẫy thu nhập trung bình, thì mô hình phát triển kinh tế cần có sự chuyển biến mạnh mẽ theo hướng phát triển dựa vào chiều sâu. Trong bối cảnh khoa học - công nghệ phát triển nhanh chóng, kinh tế tri thức trở nên phổ quát, tài nguyên thiên nhiên dần cạn kiệt, lợi thế “lao động vàng” không được phát huy, nếu chúng ta không đưa ra lựa chọn mô hình tăng trưởng kinh tế phù hợp, kịp thời, nhằm phát huy được thế mạnh hiện tại, sẽ không tạo nên thế mạnh nội tại thực sự của quốc gia.

Mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu với đặc trưng cơ bản là dựa vào khoa học - công nghệ hiện đại, nâng cao hiệu quả, chất lượng của tăng trưởng, như nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng năng suất lao động, nâng cao sự đóng góp của nhân tố năng suất tổng hợp (TFP), hướng hoạt động của nền kinh tế vào các ngành, lĩnh vực có giá trị gia tăng, giảm chi phí sản xuất,... trên cơ sở khai thác triệt để các lợi thế, thực hiện đồng bộ hóa quá trình khai thác và chế biến sản phẩm. Đây cũng chính là mục tiêu mà các nước muốn thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình cần vượt qua. Tăng trưởng theo chiều sâu không chỉ nâng cao chất lượng, hiệu quả nền kinh tế mà còn gắn liền với bảo vệ môi trường, cải thiện an sinh xã hội, phúc lợi xã hội...

Các chương trình giáo dục - đào tạo nghề cho lao động, đặc biệt là lao động nông thôn của nước ta hiện nay chủ yếu vẫn tập trung vào các ngành, nghề cũ mà chưa hướng nhiều đến đào tạo lao động cho các ngành phi nông nghiệp, đặc biệt là lao động công nghiệp và dịch vụ hiện đại. Vì vậy, cần đánh giá nhu cầu thị trường để có hướng đào tạo thích hợp. Ở đây cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với sự chỉ đạo xuyên suốt của Chính phủ.

Thông tin và kết nối thị trường lao động

Hiện nay, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội với đầu mối là Tổng cục Việc làm đã có nhiều nỗ lực nghiên cứu và đưa ra báo cáo thông tin thị trường cập nhật hằng quý, tuy nhiên nội dung thông tin thị trường chi tiết liên quan đến cung cầu thị trường lao động theo ngành, nghề còn thiếu, mới chỉ dừng lại ở các số liệu cơ bản. Đối với ngành, nghề phi nông nghiệp, cần tập trung đào tạo theo vị trí việc làm. Trong đó, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp thực hiện đào tạo theo đặt hàng của doanh nghiệp trong nước và nước ngoài theo hợp đồng. Mở rộng việc giao cho doanh nghiệp trực tiếp thực hiện đào tạo và tuyển dụng lao động sau đào tạo, gắn tuyển sinh với tuyển dụng.

Bên cạnh đó, cần phát triển nguồn nhân lực theo hướng đưa tiến bộ khoa học - công nghệ vào nâng cao năng suất lao động. Trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, cần đặc biệt chú ý đến phát triển khoa học - công nghệ.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn và tạo việc làm

Chính sách chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn gắn liền với quá trình công nghiệp hóa nền kinh tế, vì vậy cần phải đáp ứng các vấn đề mới phát sinh của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa đồng nghĩa với quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng của đất nông nghiệp. Một bộ phận nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa không còn đất hoặc còn rất ít đất để sản xuất nông nghiệp, trong khi đó lại chưa được chuẩn bị kỹ lưỡng về chuyển đổi nghề nghiệp nên dễ rơi vào tình trạng thất nghiệp và vòng luẩn quẩn của đói nghèo, đặc biệt đối với những lao động đã lớn tuổi. Mặc dù bên cạnh chính sách đền bù khi thu hồi đất đã có các giải pháp hỗ trợ về đào tạo nghề mới, chuyển đổi nghề nghiệp, nhưng quá trình đào tạo, định hướng nghề nghiệp chưa đi vào thực chất.

Trong nguyên tắc tiếp cận hỗ trợ lao động nông nghiệp dịch chuyển khỏi khu vực, trước tiên cần nhấn mạnh vào xác định cơ hội rồi sau đó mới đưa ra sự hỗ trợ. Chiến lược việc làm cần lồng ghép nhiều chương trình khác nhau. Đào tạo gắn với việc làm; lập nghiệp và mở rộng kinh doanh đi kèm với các dịch vụ hỗ trợ. Thực tế ở các nước cho thấy, việc khuyến khích tạo việc làm trong khu vực nông thôn được thực hiện thông qua nhiều chương trình, dự án của chính phủ và các nhà tài trợ. Để nâng cao hiệu quả thì những hoạt động này cần được kết hợp với nhau từ trên xuống dưới, từ cộng đồng nông thôn tới thành phố. Những người hưởng lợi cần được tiếp cận về dịch vụ việc làm, khuyến nông, đào tạo nghề, tài chính vi mô, phát triển kết cấu hạ tầng và bảo hiểm xã hội. Để sử dụng có hiệu quả các nguồn hỗ trợ, cần có sự điều phối tốt giữa các cơ quan của chính phủ và các chương trình phát triển.

Dịch chuyển lao động nông nghiệp liên quan mật thiết tới di cư lao động. Lao động di cư từ nông thôn ra thành thị cần thiết cho tăng trưởng kinh tế. Việc quản lý lao động di cư theo hướng phát triển thị trường lao động thống nhất, xóa bỏ phân biệt giữa lao động thành thị và lao động nhập cư là điều kiện cơ bản và quyết định để lao động di cư hòa nhập vào đời sống xã hội nơi đến. Tuy nhiên, chính sách đối với lao động di cư không chỉ đơn giản là việc làm và chỗ ở mà còn cả quyền được tiếp cận các dịch vụ xã hội, như giáo dục, chăm sóc sức khỏe, an sinh xã hội... Chính vì vậy, bên cạnh vai trò kết nối thị trường, hỗ trợ an sinh cho lao động di cư thì chính quyền địa phương cần có những chính sách hỗ trợ cụ thể cho nhóm đối tượng này. Các thông tin cần minh bạch và tạo thuận lợi cho người di cư khai báo.

Hỗ trợ các ngành phi nông nghiệp thu hút lao động nông nghiệp

Kinh nghiệm các nước cho thấy, muốn chuyển dịch lao động nông nghiệp hiệu quả, chính phủ cần áp dụng các chính sách nhằm tạo thêm việc làm phi nông nghiệp và khuyến khích chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn tập trung vào các vấn đề, như tăng đầu tư vào các dự án sử dụng nhiều lao động; cải thiện cơ cấu và hoạt động của các hiệp hội, hợp tác xã, các tổ chức dựa vào cộng đồng để các tổ chức này trở nên chuyên nghiệp hơn theo định hướng thị trường và tạo việc làm ổn định cho người lao động; tăng cường cung cấp tín dụng cho hoạt động phi nông nghiệp, khuyến khích chế biến nông sản, kinh doanh nông nghiệp ở quy mô hộ gia đình, doanh nghiệp quy mô nhỏ và vừa; khuyến khích bằng các đòn bẩy tài chính đối với doanh nghiệp mới thành lập ở khu vực nông thôn và doanh nghiệp chuyển từ thành thị về nông thôn, thị trấn nhỏ./.

(1) Tổng cục Thống kê: “Thông cáo báo chí kết quả điều tra dân số và nhà ở năm 2019”, https://www.gso.gov.vn/su-kien/2019/12/thong-cao-bao-chi-ket-qua-tong-dieu-tra-dan-so-va-nha-o-nam 2019/#:~:text=(20)%20D%C3%A2n%20s%E1%BB%91%20th%C3%A0nh%20th%E1%BB%8B,n%C3%B4ng%20th%C3%B4n%20c%C3%B9ng%20giai%20%C4%91o%E1%BA%A1n. (2) Tổng cục Thống kê: “Thông cáo báo chí tình hình lao động việc làm quý IV và năm 2020”, https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2021/01/thong-cao-bao-chi-tinh-hinh-lao-dong-viec-lam-quy-iv-va-nam-2020/

Tất cả quốc gia trên thế giới đều mong muốn trở thành nước công nghiệp hiện đại. Con đường duy nhất để đạt được mong muốn này chính là công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH-HĐH) đất nước, trong đó, phải đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu ngành Kinh tế.

Theo nghiên cứu của Bùi Tất Thắng (2006), Nguyễn Trọng Uyên (2007), Trần Thọ Đạt và Ngô Quang Cảnh (2015), các tiêu chí đánh giá sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế gồm: Cơ cấu GDP, Cơ cấu giá trị sản xuất, Cơ cấu lao động đang làm việc trong nền kinh tế và Cơ cấu hàng xuất khẩu. Đồng thời, các nhân tố ảnh hưởng tới sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong quá trình CNH-HĐH gồm: Sự tác động của Nhà nước; các nguồn lực của nền kinh tế (điều kiện tự nhiên, nguồn nhân lực, vốn đầu tư, tiến bộ khoa học - công nghệ); nhân tố cầu thị trường.

Dựa trên cơ sở lý luận này, bài viết đánh giá thành tựu, hạn chế và xác định nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế trong quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 1986-2022. Từ đó, xác định phương hướng, mục tiêu và đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam đến năm 2030.

Thành tựu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam

Trong giai đoạn 1986-2022, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trong chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong quá trình CNH-HĐH, cụ thể:

Hình 1: Cơ cấu GDP phân theo nhóm ngành kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 1986-2022

Thứ nhất, theo Bùi Tất Thắng (2006), cơ cấu GDP giữa các ngành kinh tế là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất phản ánh xu hướng vận động và mức độ thành công của quá trình CNH. Cơ cấu này ở nước ta trong thời gian qua đã chuyển dịch theo quy luật của chuyển dịch cơ cấu ngành trong quá trình CNH-HĐH, cụ thể: Tỷ trọng nhóm ngành Nông, lâm nghiệp và thủy sản trong GDP có xu hướng giảm xuống, từ mức 38,06% năm 1986 giảm xuống còn 24,53% năm 2000 và còn 11,88% vào năm 2022 (bình quân giảm 0,73%/năm); Tỷ trọng nhóm ngành Công nghiệp và xây dựng có xu hướng tăng mạnh nhất, từ mức 28,88% năm 1986 lên mức 36,73% năm 2000 và đạt mức 38,26% vào năm 2022 (bình quân tăng 0,26%/năm); Tỷ trọng nhóm ngành Dịch vụ cũng có xu hướng tăng lên, từ mức 33,06% năm 1986 lên mức 38,74% năm 2000 và đạt mức 41,33% vào năm 2022 (bình quân tăng 0,23%/năm).

Để đánh giá sát thực hơn sự chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế theo hướng CNH-HĐH, việc phân tích cơ cấu các phân ngành (cấp II, cấp III…) có một ý nghĩa rất quan trọng. Thông thường, cơ cấu phân ngành phản ánh sát hơn khía cạnh chất lượng và mức độ HĐH của nền kinh tế. Tại Việt Nam, trong nội bộ ngành Nông nghiệp đã chuyển dịch từ loại cây trồng, vật nuôi có hiệu quả kinh tế thấp sang loại cây trồng, vật nuôi có hiệu quả kinh tế cao hơn. Chẳng hạn như diện tích trồng lúa giảm từ 7,3 triệu ha năm 2005 xuống còn 7,1 triệu ha năm 2022, diện tích trồng ngô giảm từ 1 triệu ha năm 2005 xuống còn 0,9 triệu ha năm 2022; trái lại. diện tích trồng cà phê tăng từ 500 nghìn ha năm 2005 lên 709 nghìn ha năm 2022... Trong nội bộ ngành Lâm nghiệp, tổng diện tích rừng tăng từ 13,3 triệu ha năm 2010 lên 14,8 triệu ha năm 2022, làm cho tỷ lệ che phủ rừng tăng từ 39,5% lên 42% trong khoảng thời gian này.

Trong nội bộ nhóm ngành Công nghiệp - xây dựng thì tỷ trọng ngành Công nghiệp chế biến, chế tạo đã tăng từ 18,82% GDP năm 2005 lên mức 24,76% năm 2022 (bình quân tăng 0,35%/năm). Trong giai đoạn 2012-2022, các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất là sản xuất sản phẩm điện tử, máy tính và sản phẩm quang học (đạt tốc độ tăng trưởng là 15,3%/năm), sản xuất kim loại (13,6%/năm), sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy (11,3%/năm)...

Cơ cấu nội bộ nhóm ngành dịch vụ trong giai đoạn 2005-2022 đã chuyển dịch theo hướng hiện đại, hợp lý và hiệu quả, cụ thể là tỷ trọng trong GDP của ngành Vận tải, Kho bãi; Thông tin và Truyền thông; Khoa học công nghệ; Giáo dục và Đào tạo; Y tế đều có xu hướng tăng lên. Trái lại, tỷ trọng các ngành bán buôn và bán lẻ; dịch vụ lưu trú và ăn uống; hoạt động kinh doanh bất động sản lại có xu hướng giảm xuống.

Hình 2: Cơ cấu lao động phân theo nhóm ngành kinh tế Việt Nam giai đoạn 1990-2022

Thứ hai, cùng với quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động phân theo ngành kinh tế. Theo Bùi Tất Thắng (2006), cơ cấu này “mới là chỉ tiêu phản ánh sát thực nhất mức độ thành công về mặt kinh tế - xã hội của quá trình CNH-HĐH”. Jungho Yoo (2005) coi thời điểm bắt đầu tiến trình CNH ở một nền kinh tế khi tỷ trọng nông nghiệp chếm 50% tổng lao động xã hội và kết thúc khi tỷ trọng lao động nông nghiệp chỉ còn 20% tổng lao động xã hội. Ở nước ta thời gian qua, cơ cấu lao động phân theo nhóm ngành kinh tế cũng đã chuyển dịch theo hướng tỷ trọng lao động nhóm ngành Nông - lâm - thủy sản đã giảm từ 73,02% năm 1990 xuống còn 27,54% năm 2022 (bình quân giảm 1,42%/năm); trái lại, tỷ trọng lao động nhóm ngành công nghiệp - xây dựng đã tăng từ 11,24% lên 33,45% (bình quân tăng 0,69%), tỷ trọng lao động nhóm ngành dịch vụ cũng đã tăng từ 15,74% lên 39,02% (bình quân tăng 0,73%) trong cùng kỳ (Hình 2). Như vậy, lao động đã có sự chuyển dịch từ khu vực có năng suất lao động thấp sang các khu vực có năng suất lao động cao hơn, từ đó làm tăng năng suất trung bình của nền kinh tế, cho thấy sự đóng góp rõ ràng cho tăng trưởng kinh tế.

Thứ ba, sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế còn được thể hiện ở sự chuyển dịch cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu và “cơ cấu này cũng được xem như một trong những tiêu chí quan trọng đánh giá mức độ thành công của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH”. Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu phân theo ngành kinh tế ở nước ta trong thời gian qua cũng đã chuyển dịch theo hướng tiến bộ, thể hiện kim ngạch xuất khẩu hàng nông, lâm nghiệp và thủy sản trong tổng kim ngạch xuất khẩu giảm từ 14,6% năm 2015 xuống còn 9,2%% năm 2022. Trái lại, kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp chế biến trong tổng kim ngạch xuất khẩu đã tăng từ 82,1% năm 2015 lên 89,6% năm 2022.

Hình 3: Dự báo cơ cấu GDP phân theo nhóm ngành kinh tế đến năm 2030

Hầu hết các nước đã trải qua quá trình CNH để trở thành một nước công nghiệp phát triển đều cơ bản trải qua một mô hình chung trong cơ cấu hàng xuất khẩu là: từ chỗ chủ yếu xuất khẩu hàng sơ chế sang các mặt hàng công nghiệp chế biến, lúc đầu là các mặt hàng công nghiệp chế biến sử dụng nhiều lao động, kỹ thuật thấp chuyển dần sang các mặt hàng công nghiệp chế biến sử dụng công nghệ - kỹ thuật cao (Bùi Tất Thắng, 2006). Đối với Việt Nam, các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu trong năm 2022 là: Điện thoại các loại và linh kiện (58 tỷ USD); hàng điện tử, máy tính và linh kiện (55,5 tỷ USD); máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác (45,7 tỷ USD); hàng dệt may (37,5 tỷ USD)… Điều này phản ánh trình độ cơ cấu ngành của nền kinh tế đã cao hơn trước rất nhiều.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong quá trình CNH-HĐH ở Việt Nam trong thời gian qua còn nhiều hạn chế, bất cập, cụ thể:

Một là, cơ cấu GDP phân theo nhóm ngành kinh tế ở nước ta trong thời gian qua chuyển dịch theo hướng tiến bộ còn chậm. Nhóm ngành Nông, lâm nghiệp và thủy sản còn chiếm tỷ trọng cao; trái lại nhóm ngành Công nghiệp - xây dựng và dịch vụ còn chiếm tỷ trọng thấp trong GDP.

Trong ngành Nông nghiệp, sự chuyển dịch của cơ cấu cây trồng, vật nuôi còn mang nặng tính tự phát dẫn đến điệp khúc “được mùa, mất giá”, trình độ lực lượng sản xuất thấp, hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh là kinh tế hộ gia đình còn chiếm tuyệt đại đa số. Các mô hình kinh tế hợp tác như hợp tác xã, liên kết bốn nhà (nhà nước, nhà nông, nhà khoa học, doanh nghiệp), cánh đồng lớn, chuỗi liên kết còn hẹp, chưa phổ biến.

Ngành Công nghiệp chế biến, chế tạo có tốc độ tăng trưởng còn chậm, còn chiếm tỷ trọng nhỏ trong GDP. Trình độ của ngành này còn thấp, sử dụng nhiều lao động phổ thông, gia công, lắp ráp nên giá trị gia tăng còn thấp. Các ngành công nghiệp phụ trợ còn kém phát triển, chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế. Đối với nhóm ngành Dịch vụ thì ngành thương nghiệp, dịch vụ lưu trú và ăn uống còn chiếm tỷ trọng cao trong GDP; trái lại các ngành dịch vụ cao cấp như vận tải kho bãi, thông tin và truyền thông, hoạt động tài chính ngân hàng, hoạt động khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, y tế… còn chiếm tỷ trọng thấp trong GDP.

Hai là, lao động ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản còn chiếm tỷ trọng cao (27,54% năm 2022) trong tổng lao động xã hội. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo còn thấp.

Những hạn chế, bất cập trên do một số nguyên nhân chủ yếu sau: (i) Chất lượng công tác quy hoạch các cấp, các ngành, các vùng còn thấp, chưa đồng bộ, tổ chức thực hiện quy hoạch chưa nghiêm ngặt; chưa có sự điều chỉnh và bổ sung kịp thời phù hợp với bối cảnh tình hình mới; (ii) Về cơ cấu lao động đang làm việc trong nền kinh tế thì lao động nhóm ngành nông - lâm - thủy sản còn chiếm tỷ trọng cao trong tổng lao động xã hội; tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo còn thấp; còn mất cân đối trong cơ cấu về trình độ và ngành nghề đào tạo, chất lượng đào tạo còn thấp; (iii) Về vốn đầu tư, năng lực huy động nguồn vốn đầu tư còn hạn chế, cơ cấu đầu tư chưa thật hợp lý, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư có xu hướng giảm xuống; (iv) Về khoa học - công nghệ, cơ cấu kỹ thuật, công nghệ còn nhiều tầng, nhiều trình độ, trong đó trình độ thấp còn phổ biến, tốc độ đổi mới công nghệ của các đơn vị kinh tế còn chậm; (v) Khâu tiêu thụ hàng hóa còn nhiều khó khăn, thiếu ổn định.

Phương hướng và mục tiêu đến năm 2030

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra vô cùng mạnh mẽ cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng đòi hỏi chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời gian tới phải gắn với việc đẩy mạnh áp dụng thành tựu khoa học, kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất một cách thích hợp; phải tuân theo quy luật của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong quá trình CNH-HĐH; phải phát huy tối đa tiềm năng và lợi thế tĩnh hiện có, đồng thời phải tạo lập những lợi thế động trong tương lai. Cụ thể:

Thứ nhất, về cơ cấu GDP phân theo nhóm ngành kinh tế thì tăng nhanh tỷ trọng nhóm ngành Công nghiệp - xây dựng và dịch vụ trong GDP, giảm tương ứng tỷ trọng của ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản trong GDP. Dựa trên cơ sở dữ liệu về cơ cấu ngành kinh tế ở nước ta trong giai đoạn từ năm 1986 đến năm 2022 của Tổng cục Thống kê, nghiên cứu này đã sử dụng mô hình ARIMA (Mô hình tự hồi quy đồng liên kết trung bình trượt) trên phần mềm Stata 11 để dự báo xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế từ năm 2023 đến năm 2030 và được biểu diễn trên Hình 3. Biểu đồ này cho thấy, tỷ trọng ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản trong GDP vào năm 2030 giảm xuống chỉ còn 1,12%, tỷ trọng ngành công nghiệp và xây dựng tăng lên mức 39,91% và tỷ trọng ngành dịch vụ tăng lên mức 44,81%.

Trong nội bộ ngành Nông nghiệp, cần tiếp tục chuyển dịch theo hướng từ cây trồng, vật nuôi có hiệu quả kinh tế thấp sang cây trồng, vật nuôi có hiệu quả kinh tế cao hơn. Cần tăng cường ứng dụng thành tựu khoa học, kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất hướng tới nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp an toàn có chỉ dẫn địa lý, nông nghiệp sinh thái. Nhân rộng các mô hình hợp tác có hiệu quả trong nông nghiệp như mô hình hợp tác xã, cánh đồng lớn, liên kết bốn nhà, liên kết theo chuỗi giá trị nhằm hạn chế tình trạng “được mùa, mất giá”, mang lại hiệu quả kinh tế cao và ổn định cho người nông dân.

Trong nội bộ nhóm ngành Công nghiệp - xây dựng cần tăng nhanh tỷ trọng ngành Công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP. Trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cần tạo lập những điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh mẽ các ngành công nghiệp có hiệu quả kinh tế - xã hội cao, các ngành công nghiệp công nghệ - kỹ thuật cao trong bối cảnh các ngành công nghiệp thâm dụng lao động phổ thông đang dần trở nên mất lợi thế. Phát triển mạnh mẽ các ngành công nghiệp phụ trợ đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế. Trong nội bộ nhóm ngành dịch vụ thì phải tăng tỷ trọng các ngành dịch vụ cao cấp, giảm tỷ trọng các ngành dịch vụ cấp thấp trong GDP...

Thứ hai, về cơ cấu lao động thì phải tăng nhanh lao động trong các ngành phi nông nghiệp, giảm nhanh lao động trong các ngành nông nghiệp về số lượng và tỷ trọng. Tăng nhanh tỷ lệ lao động đã qua đào tạo, giảm tương ứng tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo trong tổng lao động xã hội.

Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở nước ta trong thời gian tới theo phương hướng trên nhằm góp phần đưa nước ta trở thành nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp vào năm 2025, trong đó tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP đạt trên 25%; Tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội khoảng 25%; Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt 28 - 30%. Đến năm 2030, mục tiêu là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, trong đó tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo đạt khoảng 30% GDP; Tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội giảm xuống dưới 20%; Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt 35-40%.

Bảng 1: Một số chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2030

Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP

Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội

Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ

Nguồn: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng

Nhằm đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong quá trình CNH-HĐH ở Việt Nam đến năm 2030, tác giả khuyến nghị một số giải pháp chủ yếu sau:

Một là, cần rà soát, điều chỉnh và bổ sung kịp thời các bản quy hoạch; đổi mới và hoàn thiện chính sách tài chính, tiền tệ nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng CNH-HĐH.

Theo đó, các cơ quan làm công tác quy hoạch cho các cấp, các ngành, các vùng cần phải rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch cho phù hợp với bối cảnh, tình hình mới. Tổ chức thực hiện quy hoạch phải nghiêm ngặt. Nhà nước cần có chính sách tài chính, tín dụng ưu đãi đối với các ngành, các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh được khuyến khích phát triển như ngành khai thác hải sản xa bờ, hình thức kinh tế trang trại, hợp tác xã, cánh đồng lớn, liên kết theo chuỗi giá trị, liên kết bốn nhà trong nhóm ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản, các ngành công nghiệp sử dụng kỹ thuật - công nghệ cao, các ngành công nghiệp hỗ trợ; các ngành dịch vụ cao cấp như Vận tải, Kho bãi, Thông tin liên lạc; Tài chính và Ngân hàng; Giáo dục và Đào tạo… nhằm từng bước nâng cấp cơ cấu ngành kinh tế theo định hướng mà Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng năm 2021 đã đề ra.

Hai là, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động phân theo nhóm ngành kinh tế theo hướng tiến bộ; mở rộng quy mô đào tạo; điều chỉnh cơ cấu về trình độ và ngành nghề đào tạo; nâng cao chất lượng đào tạo phục vụ chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.

Theo đó, cần tăng nhanh tỷ trọng lao động nhóm ngành phi nông nghiệp, trái lại giảm nhanh tỷ trọng lao động nhóm ngành Nông nghiệp trong tổng lao động xã hội; Mở rộng quy mô đào tạo, cần tăng cường đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước, đẩy mạnh xã hội hóa và hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo. Điều chỉnh cơ cấu về trình độ và ngành nghề đào tạo theo hướng phù hợp với quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, trong đó cần phải căn cứ vào nhu cầu về mỗi loại lao động để thực hiện các giải pháp đào tạo nhằm cung cấp nguồn lao động phù hợp với nhu cầu của thị trường sức lao động.

Bên cạnh đó, nâng cao chất lượng đào tạo bằng cách tiến hành đổi mới nội dung giáo dục - đào tạo, phương pháp giáo dục - đào tạo và cơ chế quản lý giáo dục. Các cơ quan, tổ chức sử dụng lao động cần bố trí công việc, có chế độ đãi ngộ phù hợp với khả năng lao động của từng người và tạo lập một môi trường lao động lành mạnh nhằm kích thích tính tích cực của người lao động, thúc đẩy sản xuất phát triển.

Ba là, huy động tối đa mọi nguồn vốn, điều chỉnh cơ cấu đầu tư và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư

Về huy động tối đa mọi nguồn vốn, khuyến khích doanh nghiệp nhà nước đầu tư bằng vốn tự có, tăng vốn bổ sung thông qua cổ phần hóa; khuyến khích đầu tư nước ngoài bằng cách tạo lập môi trường chính trị - kinh tế - xã hội ổn định, môi trường cạnh tranh lành mạnh, các thủ tục đầu tư không quá phức tạp, các ưu đãi đầu tư hấp dẫn…

Về điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo hướng tập trung đầu tư vào ngành công nghiệp chế biến và một số ngành dịch vụ động lực như: Vận tải kho bãi, Thông tin và truyền thông, Tài chính, ngân hàng và bảo hiểm, Khoa học và công nghệ, Giáo dục và đào tạo. Về cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội phân theo khoản mục đầu tư, cần chú trọng đầu tư theo chiều sâu trong tất cả các ngành kinh tế, đưa nhanh tiến bộ kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và tăng sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và ngoài nước.

Bốn là, phát triển khoa học - công nghệ.

Để khoa học, công nghệ trở thành động lực của CNH-HĐH, cần phải nâng cao năng lực nội sinh của nền khoa học công nghệ nước nhà, bao gồm nâng cao tiềm lực khoa học - công nghệ nội sinh của doanh nghiệp và cơ quan nghiên cứu khoa học - công nghệ. Gia tăng các nguồn vốn đầu tư cho phát triển khoa học - công nghệ từ nhiều phía như từ phía Nhà nước, doanh nghiệp và từ các nguồn khác. Hoàn chỉnh hệ thống chính sách bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, bao gồm quyền sở hữu công nghiệp và quyền tác giả và thực hiện nghiêm túc các chính sách này. Bên cạnh đó, cần phải có chế độ đãi ngộ tương xứng và môi trường làm việc phấn khởi nhằm khuyến khích sự cống hiến tối đa của đội ngũ những người hoạt động khoa học - công nghệ...

Năm là, đẩy mạnh hoạt động thương mại nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.

Để đẩy mạnh hoạt động thương mại, mở rộng thị trường, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng CNH-HĐH, trong thời gian tới, cần phải cần coi trọng cả thị trường trong nước lẫn thị trường ngoài nước; cần đa phương hóa thị trường, củng cố thị trường truyền thống, tìm kiếm những thị trường mới nhằm phân tán rủi ro; nâng cao năng lực công tác dự báo thị trường trong nước và ngoài nước để điều chỉnh cơ cấu sản xuất đáp ứng kịp thời nhu cầu thị trường; đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, nhất là thương mại điện tử; nâng cao năng lực cạnh tranh của từng mặt hàng, từng đơn vị trong nền kinh tế. Ngoài ra, phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng, tiếp tục tạo môi trường thuận lợi cho quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nói riêng và CNH-HĐH nói chung của Đất nước trong thời gian tới.

Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 8/2023